Chuyên đềTìm kiếmTin mi
|
Bạn tôi, liệt sĩ Võ Dũng(02/08/2011 22:27:56 PM) Dũng hồ hởi nhập đoàn quân “xẻ dọc Trường Sơn” về Nam chiến đấu. Trong đoàn còn có vợ chồng anh Long, chị Phương. Sau này, nghe anh Long kể lại, dọc đường hành quân, tuy rất vất vả, nhưng Dũng rất vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Khi thì đeo hộ ba lô, lúc lại đeo thêm khẩu súng, tới đâu cũng kể chuyện vui để quên đi vất vả.
Di ảnh liệt sĩ Võ Dũng
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bảo vệ Tổ quốc, Trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi (thuộc Tổng cục Chính trị, QĐNDVN) có 2 thầy giáo và 29 học sinh đã anh dũng hy sinh. Khi sưu tầm tư liệu về nhà trường, tôi gặp được Võ Hiếu Dân (em gái liệt sỹ, con cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) và ghi được nhiều điều về bạn mà khi cùng học chưa biết.
Võ Dũng tên thật là Phan Chí Dũng, sinh 1951 tại Rạch Giá. Cuối những năm 50 thế kỷ trước, vì chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp dã man, cơ quan Trung ương cục phải tạm lánh sang Phnôm-pênh. Bác Sáu Dân đưa Dũng và Dân theo cùng. Năm 1960, khi vừa 9 tuổi, từ Cămpuchia, Dũng được tổ chức đưa ra Bắc. Ba, má và hai em vẫn ở lại trong Nam (So với chúng bạn thì đây cũng là một thiệt thòi). Ra Bắc, Dũng được gửi vào học tại các trường Học sinh miền Nam số 19, 21 ở Cầu Rào (Hải Phòng).
Đến năm 1963, Bộ Giáo dục có chủ trương cho những học sinh miền Nam có ba mẹ hoặc người thân ở miền Bắc về sống với gia đình, tạo điều kiện cho học sinh được chăm sóc. Dũng được cô Bảy Huệ (vợ bác Nguyễn Văn Linh) nhận về nuôi. Hiếu Dân nhớ lại: “Trong gia đình, anh Dũng luôn là người anh hết mực thương yêu và nhường nhịn các em. Em cùng Hòa, Bình con cô thường được nghe anh Dũng kể những chuyện trinh thám đầy bí hiểm và hấp dẫn. Anh vừa kể, vừa hóa thân thành các hiệp sĩ oai hùng, luôn đấu tranh bảo vệ chính nghĩa. Đến năm lớp 4, anh vào học ở trường Nguyễn Trãi, Hà Nội”.
Tháng 5 năm 1965, Dũng nhập trường Thiếu sinh quân tại Hiệp Hòa, Hà Bắc. Những năm tháng ở trường, Dũng tỏ ra rất hiếu động và nghịch ngợm, hay cầm đầu các cuộc vui chơi pha chút mạo hiểm.
Cuối năm 1966, Trung ương cục cử dì Tư – liên lạc viên – về Sài Gòn đón má và hai em lên chiến khu thăm bác Sáu. Để đảm bảo bí mật, dì Tư chọn đi chuyến tầu Thuận Phong dành chở vợ con sĩ quan, binh lính ngụy lên thăm chồng ở đồn Dầu Tiếng. Thời gian này đang diễn ra trận càn lớn. Đúng ngày 17 tháng 12, địch có lệnh thiết quân luật, cấm mọi tàu bè chạy trên tuyến đường sông này.
Thật không may, ông chủ tàu Thuận Phong đêm ấy say rượu, không hay biết tin. Sáng sau vẫn cho tàu chạy. Rời Sài Gòn được hơn tiếng đồng hồ thì bị đoàn trực thăng yểm trợ bắn xối xả. Trúng đạn, tàu chìm dần. Toàn bộ hành khách trên tàu không còn ai sống sót. Ba và các chú đã giấu không cho Dũng và em Dân biết tin này.
Đầu năm 1967, do giặc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc nên nhà trường được sơ tán sang Quế Lâm, Trung Quốc. Lúc bấy giờ Dũng mới láng máng hay tin. Không còn an tâm học hành, Dũng nằng nặc xin nhà trường cho về nước. Tháng 3 năm 1968, lên tầu liên vận rời Quế Lâm về nước, Dũng được vào rèn luyện tại Trường Quân chính Quân khu Tả ngạn ở Hải Dương.
Cuối năm 1968, Bác Hồ cho đón các cháu học sinh đạt danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ: Hà Nội - Huế - Sài Gòn” về Dinh Chủ tịch chơi. Là con em miền Nam, hai anh em Dũng cũng vinh dự được gặp Bác. Các bạn thiếu nhi phấn khởi quây quần bên Bác. Bác lần lượt chia kẹo cho từng cháu và ân cần hỏi thăm xem học tập ra sao, có ngoan ngoãn nghe lời cha mẹ, thầy cô.
Đến lượt Võ Dũng, Bác hỏi : "Cháu có ngoan không?"
Dũng khoanh tay lễ phép: “Dạ, cháu còn nghịch, chưa ngoan ạ!”. Bác xoa đầu Dũng: “Giỏi, cháu thật thà như vậy là tốt, nhưng phải cố gắng lên để bằng các bạn nhé!”. Nói rồi , Bác chia phần kẹo cho Dũng.
Tháng 8 năm 1969, Dũng tập trung ở Hoà Bình chuẩn bị đi “B”. Cô Bảy Huệ, cô Tư Duy Liên và em Hiếu Dân lên thăm. Ai cũng lo không hiểu Dũng sẽ ra sao khi vào Nam, vì hồi đi học Dũng nghịch ngợm quá. Võ Dũng cười và đã hứa với: “Các cô yên tâm đi, con quyết sẽ trả thù cho má và hai em. Các cô sẽ thấy lần này con đi “một - xanh cỏ, hai - đỏ ngực”!”.
Dũng hồ hởi nhập đoàn quân “xẻ dọc Trường Sơn” về Nam chiến đấu. Trong đoàn còn có vợ chồng anh Long, chị Phương. Sau này, nghe anh Long kể lại, dọc đường hành quân, tuy rất vất vả, nhưng Dũng rất vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Khi thì đeo hộ ba lô, lúc lại đeo thêm khẩu súng, tới đâu cũng kể chuyện vui để quên đi vất vả. Tới Đặc khu Sài Gòn – Gia Định, Dũng được biên chế vào đơn vị bộ đội thông tin. Do căm thù giặc cộng thêm bản tính hiếu động, không muốn ngồi một chỗ, Dũng một mực xin về đơn vị chiến đấu.
Đến tháng 6 năm 1971, Dũng được điều về Mặt trận T3 thuộc Khu 9. Tháng 10 năm đó, Dũng giấu ba và xin bằng được về trung đội 2 trinh sát (thuộc tiểu đoàn 3). Thấy con trai thủ trưởng quyết tâm quá, các chú đành chấp nhận.
Ngày 21 tháng 4 năm 1972, trong một chuyến trinh sát cùng hai đồng đội, không may cả nhóm rơi vào ổ phục kích. Địch bất ngờ xả súng. Không kịp phản ứng, ba anh em hy sinh trên kênh Tây Ký, xã Vĩnh Lộc, huyện Hồng Vân, tỉnh Rạch Giá. Võ Dũng được chôn cất đúng nơi quê mẹ.
Sau ngày giải phóng, tháng 11 năm 1975, Dũng được gia đình và đơn vị cải táng, đưa về nghĩa trang An Nhơn Tây, huyện Củ Chi. Thật cảm động, khi lấy thi hài Dũng lên, trong túi quần vẫn còn bịch ni-lông đựng thuốc rê. Nghe Hiếu Dân kể đến đây, nhớ lại những ngày học ở trường, Dũng là một trong những số ít “tay nghiện” thuốc lá của lớp.
Sau này Dũng đã được đưa về Nghĩa trang Liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh. Tại một điểm không xa cánh trái bức phù điêu lớn ở trung tâm là nơi yên nghỉ của Dũng cùng bia mộ tượng trưng của má Trần Kim Anh và hai em nhỏ. Nấm mộ các liệt sĩ được bố trí chụm lại như những cánh của một bông hoa, và mỗi bông hoa là đội hình chiến đấu của một tiểu đội.
Trần Kiến Quốc
văn bằng | nguoihungbenho_92@yahoo.com (13:40:35 14-03-2014)
một xanh cỏ hai đỏ ngực.bác mình trước khi đi B cũng nói câu này.và 1 đi cũng ko trở lại.
|